I-56 (tàu ngầm Nhật) (1943)

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 629
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka, Yokosuka
Đặt lườn 29 tháng 6, 1942
Đổi tên I-56, 12 tháng 6, 1943
Hạ thủy 30 tháng 6, 1943
Hoàn thành 8 tháng 6, 1944
Nhập biên chế 8 tháng 6, 1944
Xóa đăng bạ 10 tháng 6, 1945
Số phận
Đặc điểm khái quát[1]
Lớp tàu Type B3
Trọng tải choán nước
  • 2.649 tấn (2.607 tấn Anh) (nổi) [2]
  • 3.747 tấn (3.688 tấn Anh) (ngầm) [2]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [2]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[2]
Mớn nước 5,19 m (17 ft 0 in)[2]
Công suất lắp đặt
  • 9.400 bhp (7.000 kW) (diesel)[2]
  • 2.400 hp (1.800 kW) (điện)[2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 17,7 hải lý trên giờ (32,8 km/h; 20,4 mph) (nổi)[2]
  • 6,5 hải lý trên giờ (12,0 km/h; 7,5 mph) (ngầm)
Tầm xa
  • 21.000 nmi (39.000 km; 24.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[2]
  • 105 nmi (194 km; 121 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)[2]
Số tàu con và máy bay mang được 6 × ngư lôi cảm tử Kaiten (bổ sung tháng 10, 1944)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y (tháo dỡ tháng 2, 1945)
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay (tháo dỡ tháng 2, 1945)

I-56 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦, Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động tuần tra và tham gia Chiến dịch Philippines trong trận Hải chiến vịnh Leyte trước khi được cải biến thành thành tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten. Nó tiếp tục hoạt động tuần tra và tham gia trận Okinawa trước khi mất tích vào tháng 4, 1945, có thể bị các tàu khu trục và máy bay Hải quân Hoa Kỳ đánh chìm tại khu vực Okinawa vào ngày 18 tháng 4, 1945.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B Cải tiến 2 (lớp I-54) (còn gọi là Type B3) được cải tiến từ Type B2 dẫn trước, có công suất động cơ diesel giảm đáng kể để nâng cao tầm xa hoạt động.[2] Chúng có trọng lượng choán nước 2.649 tấn (2.607 tấn Anh) khi nổi và 3.747 tấn (3.688 tấn Anh) khi lặn,[2] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,19 m (17 ft 0 in).[2] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[4] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[2]

Type B3 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.22 Model 10 công suất 4.700 mã lực phanh (3.505 kW),[2] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[2] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 17,7 hải lý trên giờ (32,8 km/h; 20,4 mph) và 6,5 hải lý trên giờ (12,0 km/h; 7,5 mph) khi lặn dưới nước,[5] tầm xa hoạt động của Type B3 là 21.000 hải lý (39.000 km; 24.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[2] và có thể lặn xa 105 nmi (194 km; 121 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[6]

Những chiếc Type B3 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[2] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[2][3] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[6] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[6]

Chế tạo

I-56 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 629 tại Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka ở Yokosuka vào ngày 29 tháng 9, 1942.[7][8] Nó được đổi tên thành I-56 vào ngày 12 tháng 6, 1943,[7][8] rồi được hạ thủy vào ngày 30 tháng 6, 1943.[7][8] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 8 tháng 6, 1944,[7][8] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Morinaga Masahiko.[7]

Lịch sử hoạt động

1944

Sau khi nhập biên chế, I-56 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure[8] và được điều về Hải đội Tàu ngầm 11 trực thuộc Đệ Lục hạm đội để chạy thử máy và huấn luyện.[8] Sau khi hoàn tất, vào ngày 20 tháng 9, 1944, nó được điều động sang Đội tàu ngầm 15 trực thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, vẫn thuộc Đệ Lục hạm đội.[7][8] Đến đầu tháng 10, I-56 được cải biến thành một tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten, khi khẩu hải pháo 14 cm trên boong phía sau tàu được tháo dỡ, và lắp đặt các bộ gá để có thể mang theo bốn chiếc Kaiten.[8] Cùng vào thời gian này, nó được trang bị radar và thiết bị dò radar.[8]

Từ ngày 12 tháng 10, các tàu sân bay thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 38 Đệ Tam hạm đội Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành không kích xuống các sân bay tại Đài Loan, và sau đó xuống phía Bắc đảo Luzon thuộc quần đảo Philippine.[8] Vì vậy Đô đốc Soemu Toyoda, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp, ra lệnh tiến hành Chiến dịch Shō-Gō 1 từ ngày 13 tháng 10 để phòng thủ Philippines.[8] Công việc cải biến I-56 phải tạm dừng và nó chuẩn bị để hoạt động như một tàu ngầm thông thường.[8]

Chuyến tuần tra thứ nhất

Vào ngày 15 tháng 10, I-56 cùng với các tàu ngầm I-26, I-45, I-53I-54 được điều động vào Nhóm tàu ngầm A trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[8] Nó rời Kure, Hiroshima cùng ngày hôm đó với nhiệm vụ tấn công Lực lượng Đặc nhiệm 38, đi đến khu vực tuần tra được chỉ định trong biển Philippine cách Đài Loan 240 nmi (440 km) về phía Đông Nam.[8] Đến ngày 18 tháng 10, nó được lệnh tuần tra khu vực phía Đông đảo Leyte, Philippines từ ngày 24 tháng 10.[8] Trận Leyte bắt đầu vào ngày 20 tháng 10 khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên Leyte, và cuộc phản công của Hải quân Nhật Bản đã đưa đến trận Hải chiến vịnh Leyte từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 10.[8]

I-56 đang ở trong biển Philippine về phía Đông Mindanao vào ngày 24 tháng 10, khi nó phóng ba quả ngư lôi với kíp nổ cảm ứng từ tấn công đoàn tàu vận tải thuộc Đội đặc nhiệm 78.1 đang trên đường quay trở lại New Guinea.[8] Chiếc tàu ngầm nghe thấy ba tiếng nổ, nên tin rằng đã đánh chìm được ba tàu vận tải, nhưng thực ra chỉ có một quả ngư lôi đánh trúng và gây hư hại cho chiếc landing ship, tank USS LST-695; chiếc LST sống sót và được đồng đội USS LST-985 kéo đến Guam an toàn.[8] tàu frigate tuần tra USS Carson City (PF-50) tìm cách phản công chiếc tàu ngầm, nhưng không thành công.[8]

Đến ngày 25 tháng 10, I-56 đang ở trong biển Philippine về phía Đông Bắc Mindanao khi nó trông thấy Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.1 Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ.[8] Đến 22 giờ 34 phút, nó phóng năm quả ngư lôi tấn công, nghe thấy ba tiếng nổ khoảng 50 giây sau đó, nên tự nhận đã đánh chìm một tàu sân bay hộ tống.[8] Trước đó lúc 22 giờ 32 phút, một tàu hộ tống thuộc Đơn vị 77.4.1 đã phát hiện chiếc tàu ngầm, nên các tàu sân bay hộ tống đã kịp thời đổi hướng khẩn cấp 90 độ để né tránh chiếc tàu ngầm;[8] tàu sân bay USS Petrof Bay phát hiện hai quả ngư lôi đi bên cạnh tàu.[8] Tàu hộ tống khu trục USS Coolbaugh tìm cách phản công bằng mìn sâu, buộc I-56 phải lặn xuống đến độ sâu 460 ft (140 m).[8] Coolbaugh tự nhận đã đánh chìm tàu ngầm đối phương, nhưng I-56 vẫn sống sót,[8] và sau khi trồi lên mặt nước, nó thu được một quả mìn sâu Mark 9 không kích nổ dính vào sàn tàu phía sau tháp chỉ huy.[8]

Chỉ còn lại ba quả ngư lôi, trong đó một quả gặp trục trặc, I-56 được lệnh quay trở về Nhật Bản.[8] Nó về đến Kure vào ngày 4 tháng 11, và tại đây công việc cải biến thành tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten được tái tục.[8] Nó bắt đầu thực hành phóng ngư lôi Kaiten từ ngày 12 tháng 11.[8]

1945

Nhiệm vụ Kaiten thứ nhất

Sau khi quay trở lại Kure, I-56 trải qua một đợt tái trang bị, khi hầm chứa máy bay cùng máy phóng dành cho thủy phi cơ được tháo dỡ khỏi sàn phía trước, lấy chỗ để mang thêm hai ngư lôi Kaiten, khiến nó có thể mang tổng cộng sáu chiếc Kaiten.[8]

Nhiệm vụ Kaiten thứ hai

Từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 3, 1945, lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên quần đảo Kerama về phía Tây Nam Okinawa nhằm chiếm một căn cứ tiền phương chuẩn bị cho việc chiếm đóng chính Okinawa.[8] Vào ngày 27 tháng 3, Đội Kaiten Tatara, vốn bao gồm I-56 và các tàu ngầm I-44, I-47I-58, được thành lập để tấn công tàu bè Đồng Minh tại Okinawa.[8] I-56 xuất phát từ căn cứ Otsujima vào ngày 31 tháng 3, mang theo sáu ngư lôi Kaiten để hướng đến khu vực hoạt động về phía Đông Bắc Okinawa.[8] Trận Okinawa chính thức bắt đầu vào ngày 1 tháng 4 khi lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ bộ lên chính Okinawa.[8]

Bị mất

I-56 bị mất vào một lúc nào đó trong tháng 4 nhưng không rõ hoàn cảnh cụ thể.[8] Đa số các sử gia Nhật Bản cho rằng tàu khu trục Hoa Kỳ USS Hudson đã đánh chìm nó vào ngày 5 tháng 4, nhưng hầu hết các tác giả phương Tây xác định Hudson đã đánh chìm chiếc Ro-49.[8] Một số sử gia phương Tây cũng ghi công cho I-56 đã đánh chìm tàu ngầm Hoa Kỳ USS Snook vào một lúc nào đó sau ngày 8 tháng 4, nhưng tài liệu thu được từ phía Nhật Bản không thể xác nhận điều này.[8]

Vào ngày 17 tháng 4, lúc 23 giờ 05 phút, thiết giáp hạm USS Missouri (BB-63) phát hiện qua radar một tàu ngầm đang di chuyển trên mặt nước ở khoảng cách 12 nmi (22 km), nên một đội tìm-diệt tàu ngầm được hình thành chung quanh tàu sân bay hạng nhẹ USS Bataan.[8] Tàu khu trục USS Heermann phát hiện được mục tiêu qua radar, và tàu khu trục USS Uhlmann đã tiến hành một lượt tấn công bằng mìn sâu, nhưng không có kết quả.[8] Đến sáng ngày 18 tháng 4, hai máy bay xuất phát từ Bataan cùng với các tàu khu trục USS Collett, USS McCord và USS Mertz tiến hành một đợt tấn công phối hợp. Sau nhiều giờ truy tìm và tấn công, chiếc tàu ngầm đối phương cuối cùng bị đánh chìm tại tọa độ 26°42′B 130°38′Đ / 26,7°B 130,633°Đ / 26.700; 130.633.[8] Tung tích chiếc tàu ngầm bị đánh chìm tiếp tục là một bí ẩn, nhưng nhiều khả năng đó là I-56.[8]

Đến ngày 2 tháng 5, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-56 có thể đã bị mất tại khu vực Okinawa với tổn thất toàn bộ 116 thành viên thủy thủ đoàn cùng sáu thành viên tổ lái Kaiten.[8] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 6, 1945.[7][8]

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ Carpenter & Polmar (1986), tr. 108.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t “Type B3”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2024.
  3. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  4. ^ Bagnasco (1944), tr. 189.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFBagnasco1944 (trợ giúp)
  5. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  6. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  7. ^ a b c d e f g “I-56(2) ex No-629”. ijnsubsite.info. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2024.
  8. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-56: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2024.

Thư mục

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

  • “I-56(2) ex No-629”. ijnsubsite.com. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2024.
  • Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2014). “IJN Submarine I-56: Tabular Record of Movement”. Combinedfleet.com. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2024.


  • x
  • t
  • s
Tàu ngầm Type B (Otsu)
Lớp I-15 (Type B/B1)
  • I-15
  • I-17
  • I-19
  • I-21
  • I-23
  • I-25
  • I-26
  • I-27
  • I-28
  • I-29
  • I-30
  • I-31
  • I-32
  • I-33
  • I-34
  • I-35
  • I-36
  • I-37
  • I-38
  • I-39
Lớp I-40 (Type BM1/B2)
  • I-40
  • I-41
  • I-42
  • I-43
  • I-44
  • I-45
Lớp I-54 (Type BM2/B3)
  • I-54
  • I-56
  • I-58
Tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản
  • Cổng thông tin Quân sự
  • Cổng thông tin Hàng hải
  • Cổng thông tin Nhật Bản